Ung thư trực tràng là một trong những bệnh ung thư phổ biến và nguy hiểm nhất hiện nay. Bệnh nhân được chẩn đoán ung thư trực tràng giai đoạn 3 cần tích cực điều trị để tăng khả năng kiểm soát bệnh cũng như giảm nguy cơ tái phát. Bài viết sau sẽ cung cấp những thông tin cần biết về giai đoạn 3 của ung thư trực tràng.
Ung thư trực tràng giai đoạn 3 là giai đoạn ung thư trực tràng đã lan sang các hạch bạch huyết gần đó nhưng chưa di căn đến các cơ quan khác trong cơ thể.
Ung thư trực tràng được phân giai đoạn dựa trên sự phát triển và di căn của tế bào ung thư. Tế bào ung thư có thể hình thành một hoặc nhiều khối u trong thành trực tràng và có thể phát triển xuyên qua thành trực tràng để xâm lấn cơ quan xung quanh. Đồng thời, tế bào ung thư cũng có khả năng di căn đến cơ quan khác để tạo thành khối u mới.
Tại thời điểm chẩn đoán, tình trạng ung thư trực tràng của mỗi người bệnh có mức độ phát triển và di căn khác nhau.
Khối u nguyên phát - T
Hạch bạch huyết vùng - N
Di căn xa - M
Giai đoạn 3 ung thư trực tràng được chia thành 3 giai đoạn nhỏ hơn: (1)
Ung thư trực tràng giai đoạn 3A sẽ được xếp loại là T1(T2)N1M0 hoặc T1N2aM0.
Ở giai đoạn 3B, ung thư trực tràng được phân thành 3 loại là T3(T4)N1M0, T2(T3)N2aM0 và T1(T2)N2bM0.
Ở giai đoạn 3C, ung thư trực tràng được phân làm 3 loại là T4aN2aM0, T3(T4a)N2bM0, T4bN1(N2)M0, mang ý nghĩa:
Tìm hiểu thêm:
Ung thư giai đoạn 3 là giai đoạn phát triển nặng, bệnh nhân thường sẽ có những biểu hiệu rõ ràng hơn các giai đoạn trước. Các triệu chứng có thể gặp phải của ung thư trực tràng giai đoạn 3 bao gồm:
Năm 2022, số liệu từ Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC) đã chỉ ra ung thư đại trực tràng (gồm đại tràng và trực tràng) đang đứng thứ 3 với số ca mắc mới với tỷ lệ 9,6%, chỉ đứng sau ung thư phổi (12,4%) và ung thư vú (11,6%).
Ung thư đại trực tràng cũng đứng thứ 2 về tỷ lệ tử vong với tỷ lệ 9,3% chỉ đứng sau ung thư phổi (18,7%). Có thể thấy, ung thư đại trực tràng nói chung và trực tràng nói riêng đang là một trong những bệnh ung thư phổ biến và nguy hiểm nhất hiện nay.
Theo số liệu thống kê từ Tổ chức Nghiên cứu Ung Thư Vương quốc Anh (Cancer Research UK) thì tỷ lệ sống sót ít nhất 5 năm của các bệnh nhân được chẩn đoán ung thư đại trực tràng giai đoạn 3 từ năm 2016 - 2020 là 65%. (2)
Hiệp hội Ung Thư Hoa Kỳ cũng có thống kê về tỷ lệ sống sót trong vòng 5 năm của người mắc ung thư trực tràng được chẩn đoán từ năm 2012 - 2018 ở giai đoạn khu trú tại chỗ - tại vùng là 74%. (3)
Qua hai bảng thống kê, có thể thấy tiên lượng sống sót của ung thư trực tràng giai đoạn 3 vẫn còn khá cao (nếu so sánh với giai đoạn 4 hay di căn xa), với tỷ lệ trung bình khoảng 65% - 70%. Tuy nhiên đây chỉ là con số mang tính tương đối. Để đạt được hiệu quả điều trị cao, bệnh nhân cần khám và điều trị tại các cơ sở y tế uy tín, nhiều kinh nghiệm, đồng thời cũng cần tuân thủ chặt chẽ kế hoạch điều trị, nhằm đảm bảo tình trạng sức khoẻ tốt nhất.
Ở giai đoạn 3, các biểu hiệu bệnh lý và triệu chứng rõ ràng đã rõ ràng, nên việc phát hiện ung thư cũng dễ dàng hơn. Dưới đây là một số kỹ thuật phổ biến có thể dùng để chẩn đoán ung thư trực tràng giai đoạn 3. (4)
Nội soi để chẩn đoán ung thư trực tràng rất phổ biến vì đây là khu vực gần hậu môn, bác sĩ có thể thực hiện nội soi qua hậu môn mà không cần mổ hay để lại tổn thương lớn. Bác sĩ sẽ sử dụng thiết bị nội soi gồm ống dài có camera và đèn để quan sát bên trong trực tràng thông qua màn hình máy tính. Bác sĩ cũng có thể thực hiện lấy mẫu sinh thiết trong quá trình nội soi.
Bác sĩ sẽ lấy một mô ở trực tràng để thực hiện giải phẫu bệnh, phân tích và đánh giá tại phòng thí nghiệm. Sinh thiết có thể cung cấp nhiều thông tin để đánh giá chính xác hơn về sự phát triển của ung thư trong trực tràng.
PET/CT là viết tắt của Chụp cắt lớp phát xạ Positron kết hợp Chụp cắt lớp vi tính (Positron Emission Tomography/Computed Tomography). Đây là kỹ thuật y học hạt nhân tiên tiến kết hợp hai phương pháp chẩn đoán hình ảnh:
Kết hợp hai kỹ thuật này, PET/CT mang lại nhiều lợi ích:
Trong chẩn đoán, người bệnh có thể được bác sĩ chỉ định chụp CT riêng lẻ hoặc kết hợp hai phương pháp PET/CT.
Chụp MRI hay cộng hưởng từ có thể giúp khảo sát rõ ràng các mô mềm bên trong cơ thể. Khi chẩn đoán ung thư trực tràng, các bác sĩ có thể chỉ định chụp MRI vùng chậu. Vì sử dụng từ trường mạnh và sóng radio để tạo ra hình ảnh, không sử dụng bức xạ ion hóa nên MRI có ưu điểm chụp tốt cho mô mềm, an toàn cho bệnh nhân, đặc biệt là trẻ em và phụ nữ mang thai khi so với các phương pháp X-quang và CT.
Xét nghiệm máu có thể giúp phát hiện các dấu hiệu bất thường liên quan đến ung thư trực tràng như thiếu máu do chảy máu tiềm ẩn (có máu xen lẫn trong phân nhưng không nhìn thấy bằng mắt thường), tăng CEA (Carcinoembryonic Antigen) - một protein liên quan đến ung thư.
Bên cạnh xét nghiệm máu, bác sĩ cũng có thể thực hiện xét nghiệm phân và xét nghiệm di truyền. Xét nghiệm phân có thể giúp phát hiện máu trong phân, một dấu hiệu phổ biến của ung thư trực tràng. Xét nghiệm di truyền có thể được thực hiện cho những người có nguy cơ cao mắc ung thư trực tràng do di truyền để tìm kiếm các đột biến gen liên quan đến bệnh.
Hiện nay, điều trị ung thư trực tràng giai đoạn 3 nói riêng và ung thư trực tràng nói chung chủ yếu dựa trên 3 phương pháp là hóa trị, xạ trị và phẫu thuật. Quá trình điều trị thường phối hợp 3 phương pháp trên để đạt kết quả tốt nhất.
Hóa trị được sử dụng để tiêu diệt, ngăn tế bào ung thư phát triển và phân chia không kiểm soát. Hóa trị có thể được sử dụng như phương pháp điều trị chữa bệnh chính hoặc biện pháp điều trị bổ trợ cùng phẫu thuật hay xạ trị. Đối với ung thư trực tràng giai đoạn 3, hoá trị được sử dụng với mục đích hỗ trợ tiêu diệt các tế bào ung thư còn sót lại sau phẫu thuật hay phối hợp với xạ trị (hoá xạ đồng thời) nhằm làm tăng độ nhạy cảm của tế bào ung thư.
Khi chỉ định điều trị bằng hóa chất, bác sĩ sẽ quyết định dựa vào các yếu tố như vị trí của ung thư, giai đoạn, mức độ phát triển và sức khỏe tổng thể của bệnh nhân. Hóa trị có thể gây ra rất nhiều tác dụng phụ, ảnh hưởng đến sức khỏe và cuộc sống bệnh nhân. Một số tác dụng phụ thường thấy ở hóa trị là rụng tóc, lở miệng, ăn không ngon, da trở nên nhạy cảm, sức khỏe suy giảm.
Xạ trị là phương pháp sử dụng tia X năng lượng cao (tia xạ) để điều trị ung thư. Tia xạ làm tổn thương tế bào ung thư, khiến chúng ngừng sinh sản và chết đi. Xạ trị có thể dùng như phương pháp điều trị chính hoặc hỗ trợ sau cho phẫu thuật.
Xạ trị ngoài (EBRT) là loại xạ trị phổ biến nhất. Với EBRT, máy xạ hướng các chùm bức xạ năng lượng cao về phía khối u. Năng lượng có thể là tia X, electron hoặc proton. Bác sĩ xạ trị sẽ lập một kế hoạch điều trị để tính toán liều xạ vào khối u và tránh ảnh hưởng các mô khỏe mạnh xung quanh.
Xạ trị trong hay xạ trị áp sát là xạ trị khối u từ bên trong qua trực tràng. Phương pháp điều trị này sử dụng liều xạ cao cho khối u ung thư trực tràng, giúp thu nhỏ khối u, giảm triệu chứng nhanh hơn.
Dưới đây là các phương pháp phẫu thuật phổ biến đối với ung thư trực tràng giai đoạn 3:
Đối với các khối u T1 nằm ở đoạn cuối trực tràng, kỹ thuật cắt bỏ qua ngả hậu môn có thể được bác sĩ lựa chọn. Thủ thuật này được gọi là cắt bỏ tại chỗ qua ngả hậu môn (transanal local excision). Bác sĩ phẫu thuật sẽ cắt xuyên qua tất cả các lớp của thành trực tràng để loại bỏ khối ung thư và một phần mô bình thường xung quanh trực tràng. Các hạch bạch huyết không được cắt bỏ trong thủ thuật này.
Các kỹ thuật tiên tiến để cắt bỏ các khối u nằm ở đoạn trực tràng cao hơn bao gồm phẫu thuật nội soi vi phẫu qua đường hậu môn (TEM) và phẫu thuật xâm lấn tối thiểu qua đường hậu môn (TAMIS). Nếu kết quả giải phẫu bệnh sau phẫu thuật xác nhận ung thư là T1 và được đánh giá là nguy cơ thấp, người bệnh không cần điều trị thêm và sẽ được theo dõi định kỳ.
Trong một số trường hợp, có thể cần thêm điều trị sau khi cắt bỏ tại chỗ qua đường hậu môn. Nếu kết quả giải phẫu bệnh sau phẫu thuật có các đặc điểm nguy cơ cao, hoặc khối u lớn hơn dự kiến và đã xâm lấn vào lớp cơ (khối u T2), thì phương pháp điều trị được ưu tiên là phẫu thuật cắt trực tràng qua ngả bụng.
Phẫu thuật cắt trực tràng qua ngả bụng (transabdominal surgery) được khuyến cáo cho các khối u đã xâm lấn vào lớp cơ của thành trực tràng, đây là các khối u giai đoạn T2. Phương pháp này cũng được khuyến cáo cho ung thư trực tràng đã di căn đến các hạch bạch huyết gần đó, hoặc trong tình huống bệnh nhân không đủ điều kiện để thực hiện các phương pháp phẫu thuật khác (như cắt bỏ tại chỗ qua đường hậu môn).
Phương pháp cắt bỏ trực tràng qua ngả bụng được thực hiện thông qua vết mổ trên thành bụng để từ đó có thể tiếp cận và cắt bỏ khối u trực tràng cùng một phần mô lành xung quanh và các hạch bạch huyết gần đó. Bác sĩ phẫu thuật cần lấy ít nhất 12 hạch bạch huyết lân cận.
Cắt bỏ đoạn trực tràng trước thấp (Low Anterior Resection - LAR) là một dạng phẫu thuật cắt trực tràng qua ngả bụng cho các khối u trực tràng giữa hoặc cao. Ngoài khối u trực tràng, một phần hoặc toàn bộ đoạn cuối cùng của đại tràng cũng được cắt bỏ. Phần đại tràng bên trên sau đó được nối với phần trực tràng còn lại, hay nối trực tiếp với hậu môn.
Bác sĩ phẫu thuật có thể sẽ trì hoãn việc nối ruột để đảm bảo vết mổ ở trực tràng có đủ thời gian để lành lại. Trong trường hợp này, bác sĩ sẽ thực hiện thủ thuật đặt hậu môn nhân tạo.
Hậu môn nhân tạo (colostomy) là thủ thuật nối giữa một phần của đại tràng và thành bụng. Thủ thuật này tạo ra một lỗ mở trên bề mặt thành bụng giúp cho phân từ đại tràng có thể thoát ra khỏi cơ thể qua lỗ mở này và vào túi được gắn trên da bụng. Tạo hậu môn nhân tạo tạm thời có thể chỉ cần thiết trong thời gian ngắn để trực tràng lành lại trước khi được nối lại với đại tràng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, có thể cần tạo hậu môn tạm thời vĩnh viễn.
Phẫu thuật cắt trực tràng đường bụng và tầng sinh môn (APR) là phẫu thuật xuyên bụng được sử dụng cho các khối u nằm ở phần thấp của trực tràng. Những khối u này có thể đã phát triển vào hậu môn hoặc cơ sàn chậu gần đó (cơ nâng hậu môn - levator ani). Phẫu thuật APR cắt bỏ hậu môn, trực tràng, phần tiếp đối giữa trực tràng - đại tràng sigma và các mô lành xung quanh. Trong một số trường hợp, cơ nâng hậu môn cũng được cắt bỏ. Sau phẫu thuật này, người bệnh phải đặt hậu môn nhân tạo vĩnh viễn.
Các bệnh nhân ung thư trực tràng sau khi đã kết thúc điều trị - cần duy trì một lối sống lành mạnh, tái khám mỗi 3-6 tháng. Việc tái khám đúng hẹn giúp bác sĩ có thể theo dõi liên tục, giúp phát hiện và điều trị sớm khi có dấu hiệu tái phát bệnh ung thư trong cơ thể.
Khoa Ung bướu, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM quy tụ đội ngũ bác sĩ lâm sàng nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điều trị ung thư. Các bác sĩ liên tục cập nhật các phác đồ điều trị mới nhất trên thế giới nhằm cá thể hóa, tăng hiệu quả điều trị và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Khoa Ung bướu Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM còn được đầu tư xây dựng đúng theo tiêu chuẩn quốc tế với chi phí điều trị hợp lý, cung cấp đầy đủ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp, tận tâm và cao cấp. Đồng thời, bệnh viện cũng trang bị nhiều máy móc hiện đại nhằm hỗ trợ việc điều trị một cách tốt nhất cho người bệnh.
Trên đây là những chia sẻ về phân loại và điều trị ung thư trực tràng giai đoạn 3. Trong quá trình điều trị, người bệnh cần giữ sự lạc quan, sống lành mạnh và tuân thủ chặt chẽ những chỉ định của bác sĩ để đạt kết quả điều trị tốt nhất.
Link nội dung: https://truyenhay.edu.vn/ung-thu-dai-trang-giai-doan-3a-a62274.html