Mỹ vi phạm Hiệp định, hất cẳng Pháp, dựng lên chế độ thực dân kiểu mới ở miền Nam nước ta. Mỹ đã thực hiện nhiều chiến lược phản cách mạng tàn bạo và đầy tham vọng: Chiến lược tổ cộng, diệt cộng (1955-1960), chiến lược “chiến tranh đặc biệt” (1961-1965), chiến lược “chiến tranh cục bộ” (1965-1968) và chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969-1975). Khi chiến lược “chiến tranh đặc biệt” phá sản, Mỹ đưa lực lượng viễn chinh trực tiếp tham chiến ở miền Nam bằng “chiến tranh cục bộ”, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc.
Nhân dân Việt Nam cùng lúc thực hiện hai chiến lược cách mạng: Cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trước thử thách vô cùng cam go, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra những vấn đề chiến lược, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 15 xác định con đường cách mạng ở miền Nam và những nghị quyết xác định nhiệm vụ cách mạng chung của cả nước nhằm “đánh cho Mỹ cút” và “đánh cho ngụy nhào”, với ý chí nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Như vậy, thời kỳ đầu chiến tranh của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được bắt đầu từ công cuộc chống chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, song nếu tính đến kẻ thù đối đầu đích thực của chúng ta là đế quốc Mỹ thì thời kỳ đầu chiến tranh bao gồm cả công cuộc chống chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Riêng đối với miền Bắc, công cuộc chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ lần thứ nhất được coi như thời kỳ đầu chiến tranh thuộc loại hình tương đối độc lập - chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Ngay từ những tháng cuối năm 1960 đầu năm 1961, ở miền Nam Việt Nam, phong trào nổi dậy của quần chúng kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, chúng ta đã giành quyền làm chủ phần lớn nông thôn, miền núi. Chế độ ngụy quyền Sài Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ. Chính sách thực dân mới của Mỹ ở miền Nam bị thất bại một bước nghiêm trọng. Để cứu vãn tình hình, ngày 28 tháng 1 năm 1961, Mỹ chính thức thông qua chiến lược “chiến tranh đặc biệt” và chọn miền Nam Việt Nam làm nơi thí điểm. Về thực chất, “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam Việt Nam là “dùng người Việt đánh người Việt” dưới cái ô “bảo trợ” của đế quốc Mỹ. Đây là một âm mưu thâm độc, một chiến lược quân sự - chính trị nguy hiểm, thực hiện sự kết hợp giữa thủ đoạn chiến tranh tàn bạo và vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại với sự điên cuồng, man rợ của bọn tay sai, bao gồm các thế lực của giai cấp phong kiến, tư sản mại bản phản động ở miền Nam Việt Nam.
Tháng 5 năm 1961, Phó Tổng thống Mỹ đến Sài Gòn, bí mật ký kết với ngụy quyền Diệm một hiệp ước hợp tác. Mỹ cam kết ủng hộ tối đa về mọi mặt, tăng gấp đôi viện trợ quân sự, thậm chí sẵn sàng sử dụng lực lượng quân sự để trợ giúp cho quân đội của chính quyền Ngô Đình Diệm. Tháng 6 năm 1961, Mỹ cử Xtalây sang miền Nam Việt Nam nghiên cứu tình hình, vạch kế hoạch dập tắt phong trào cách mạng. Tháng 10 năm 1961, tướng Taylo, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ, được cử sang nghiên cứu tại chỗ và bổ sung các vấn đề quân sự cho kế hoạch ấy. Thế là kế hoạch Xtalây - Taylo bình định miền Nam Việt Nam trong vòng 18 tháng được hình thành, về thực chất là thực thi chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
Để thực thi Hiệp ước phòng thủ chung ký với Mỹ ngày 18 tháng 10 năm 1961, Ngô Đình Diệm tuyên bố “tình hình khẩn cấp” và sử dụng “quyền đặc biệt” ở miền Nam. Tại Oasinhtơn, Tổng thống Mỹ thông báo quân lực Hoa Kỳ đã được chuẩn bị tham gia vào nỗ lực liên quân gia tăng với Việt Nam Cộng hòa, và sẽ tham gia hành quân với quân đội Nam Việt Nam. Tháng 12 năm 1961, hai đại đội trực thăng và 400 lính biệt kích “mũ nồi xanh” của quân đội Mỹ được điều đến miền Nam Việt Nam, Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV) được thành lập, đánh dấu giai đoạn chuyển từ hình thức cố vấn quân sự sang hình thức có lực lượng vũ trang Mỹ tham chiến.